Tân La Tam_Quốc_(Triều_Tiên)

Bài chi tiết: Tân La
Bangasayusang (Bán già tư duy tương), thế kỷ 7

Theo sử sách Triều Tiên, năm 57 TCN, Seorabeol (Từ La Phạt) hay Saro (Tư Lô), sau đó là Silla (Tân La) ở đông nam bàn đảo Triều Tiên đã thống nhất và mở rộng trên cơ sở liên minh của các tiểu quốc bộ tộc được gọi là Thìn Hàn. Mặc dù Tam quốc sử ký chép rằng Tân La được thành lập sớm nhất trong ba vương quốc, các tài liệu và hiện vật khảo cổ khác cho thấy rằng Tân La dường như là vương quốc cuối cùng trong Tam Quốc lập được một chính quyền tập trung.

Việc đổi tên từ Tư Lô sang Tân La tiến hành vào năm 503, vương quốc sáp nhập liên minh Già Da (Gaya), tức liên minh phát triển từ Biện Hàn trước đó, vào đầu thế kỷ thứ 6. Cao Câu Ly và Bách Tế phản ứng lại điều này bằng cách lập một liên minh. Để đối phó với các cuộc xâm lược từ Cao Câu Ly và Bách Tế, Tân La làm sâu đậm thêm mối quan hệ của mình với nhà Đường. Với việc chiếm được một số lãnh thổ mới, Tân La có thể giao thiệp trực tiếp với nhà Đường qua Hoàng Hải. Sau khi cùng với đồng minh là nhà Đường chinh phục Cao Câu Ly và Bách Tế, vương quốc Tân La đã đánh đuổi quân Đường ra khỏi bán đảo và chiếm vùng đất phía nam Bình Nhưỡng ngày nay.

Kinh đô của Tân La là Seorabeol (Từ La Phạt) (nay là Gyeongju; "Seorabeol", "서라벌" trong Hangul hay "徐羅伐" trong Hanja, được đặt giả thuyết là một từ tiếng Triều Tiên cổ có nghĩa là "kinh đô"). Phật giáo trở thành tôn giáo chính thức vào năm 528. Hiện vật văn hóa còn lại của vương quốc Tân La gồm có tác phẩm nghệ thuật bằng vàng độc nhất vô nhị thể hiện ảnh hưởng của các bộ lạc thảo nguyên du mục phương bắc, phân biệt với văn hóa của Cao Câu Ly và Bách Tế chịu ảnh hưởng của Trung Quốc một cách rõ rệt hơn.